Các chính đảng Chính trị Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland

Lịch sử

Các đảng chính trị bắt đầu xuất hiện tại Anh từ năm 1662 sau khi cuộc Nội chiến Anh kết thúc với sự ra đời của Đảng Cung đình (Court Party) và Đảng Nông thôn (Country Party), sau này trở thành Đảng Tory (nay là đảng Bảo thủ, mặc dù vẫn thường được gọi là "Tory") và Đảng Whig (nay là đảng Dân chủ Tự do). Hai chính đảng này vẫn duy trì vị thế chính trị quan trọng trong cho đến thế kỷ 20.

Tên gọi của hai đảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng Dự luật Khai trừ trong những năm 1678-1681 – đảng Whig ủng hộ việc khai trừ Công tước xứ York theo đức tin Công giáo khỏi quyền kế thừa ngai vàng của xứ Anh, Ái Nhĩ Lan và xứ Scotland, trong khi đảng Tory chống lại chủ trương khai trừ này. Cả hai tên gọi được dùng để biểu thị sự khinh miệt: "whiggamor" là "đồ chăn bò" (cattle driver) và "tory" trong tiếng Ái Nhĩ Lan nghĩa là "đồ vô lại" (an outlaw).

Đại thể, đảng Tory có quan hệ với giới thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp đoàn, tài chính và chủ đất.

Đảng Cấp tiến Rochdale qui tụ những người theo đuổi khuynh hướng cải cách triệt để, hoạt động tích cực cho phong trào hợp tác xã. Họ chủ trương xây dựng một xã hội bình đẳng hơn. Đảng này nên được xếp vào cánh tả nếu xét theo tiêu chuẩn đương đại.

Sau năm 1815, đảng Tory trải qua một cuộc cải tổ sâu sắc dưới ảnh hưởng của Robert Peel, một nhà công nghiệp, trong năm 1834 với bản Tuyên ngôn Tamworth, Peel phác thảo triết lý "Bảo thủ" chủ trương cải cách những tệ nạn trong khi vẫn bảo tồn những tập quán tốt.

Năm 1846, do bất đồng về vấn đề tự do thương mại, một số người ủng hộ Peel tách khỏi đảng Tory để gia nhập đảng Whig và kết hợp với đảng Cấp tiến để thành lập Đảng Tự do, trong khi chủ trương của Peel vẫn được duy trì trong đảng Tory, từ đó đảng này chính thức chấp nhận danh xưng Bảo thủ.

Mặc dù đã được sử dụng trong những thập niên trước đó, tên "Đảng Tự do" trở nên danh xưng chính thức trong năm 1868. Năm 1870 Đảng Tự do thành lập chính phủ, từ đó cùng với Đảng Bảo thủ luân phiên cầm quyền suốt từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Năm 1882, Đảng Đại nghị Ái Nhĩ Lan được thành lập để thế chỗ của Liên minh Cầm quyền Nội địa. Mãi đến năm 1918 đảng này vẫn là chính đảng lớn thứ ba trong chính trường nước Anh, thường thủ giữ vị trí cân bằng lực lượng.

Năm 1900, Ủy ban Đại diện Lao động ra đời, đến năm 1906 đổi tên thành Đảng Lao động. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đảng Lao động được xem là động lực cải cách chính tại Anh. Sự hiện diện của Đảng Lao động ở phe tả của chính trường nước Anh dần dà làm suy yếu Đảng Tự do để cuối cùng đẩy đảng này xuống vị trí thứ ba trong nền chính trị quốc gia. Sau những kết quả nghèo nàn trong các cuộc tuyển cử năm 1922, 19231924, đảng Tự do đã bị thế chỗ bởi Đảng Lao động trong vị trí của một chính đảng cánh tả.

Theo sau hai giai đoạn ngắn thành lập chính phủ thiểu số trong năm 19241929-1931, đảng Lao động có được chiến thắng đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai trong cuộc bầu cử năm 1945. Trong những năm còn lại của thế kỷ 20, đảng Lao động cùng với đảng Bảo thủ luân phiên thành lập chính phủ. Phần lớn thời gian cầm quyền thuộc về Đảng Bảo thủ trong khi Đảng Lao động chịu đựng "thời kỳ hoạn nạn" trong những năm 1951-1964 (thất bại trong ba kỳ tổng tuyển cử liên tiếp) và năm 1979-1997 (thất bại trong bốn kỳ tổng tuyển cử liên tiếp).

Năm 1975, Margaret Thatcher, một chính trị gia hữu khuynh, nắm quyền lãnh đạo Đảng Bảo Thủ và bắt tay tiến hành những cải cách cơ bản trong chính sách của đảng hướng theo chủ trương tân tự do. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1979, Thatcher đánh bại chính phủ đảng Lao động của James Callaghan đang gặp khó khăn sau những cuộc đình công lan rộng đòi tăng lương khởi xướng bởi các nghiệp đoàn trong "mùa đông bất bình" năm 1978-79.

Trong thập niên 1980 và 1990, dưới sự lãnh đạo của người kế nhiệm John Major, chính phủ Bảo thủ theo đuổi chính sách tư hữu hóa, đối kháng nghiệp đoàn và tiền tệ, được gọi chung là chủ thuyết Thatcher.

Đảng Lao động bầu một nhân vật khuynh hữu, Michael Foot, vào vị trí lãnh tụ đảng sau thất bại trong cuộc tuyển cử năm 1979. Nhằm giải quyết những bất bình trong nội bộ đảng, Foot theo đuổi các chính sách cấp tiến cổ xúy bởi các đảng viên ở hạ tầng cơ sở. Năm 1981, một số nghị sĩ cánh hữu thành lập một nhóm ly khai gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (SDP); hành động gây phân hóa trong đảng Lao động và được xem là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của đảng trong suốt một thập niên. Đảng Dân chủ Xã hội thành lập liên minh với Đảng Tự do, trong các cuộc tổng tuyển cử năm 1983 và 1987 liên minh này được xem là một chọn lựa cho những cử tri tìm kiếm một khuynh hướng trung dung giữa đảng Lao động và đảng Bảo thủ. Sau một vài thành công ban đầu, đảng Dân chủ Xã hội trở nên trì trệ có lẽ vì phải chia phiếu trong vòng cử tri chống đảng Bảo thủ.

Cuối cùng vào năm 1988, đảng Dân chủ Xã hội sáp nhập với đảng Tự do để trở thành Đảng Dân chủ Tự do. Sự ủng hộ dành cho đảng tân lập gia tăng từ đó, dành thêm ghế trong Viện Thứ dân qua các cuộc bầu cử năm 19972001.

Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1983, đảng Lao động thất bại thảm hại trước đảng Bảo thủ. Michael Foot phải ra đi và được thay thế bởi Neil Kinnok trong vị trí lãnh tụ đảng. Kinnok trục xuất nhóm tả khuynh Militant Tendency và tìm cách dung hòa các chính sách của đảng. Sau thất bại sít sao trong cuộc tổng tuyển cử năm 1992, Kinnok bị thay thế bởi John Smith.

Năm 1994,Tony Blair trở nên lãnh tụ đảng Lao động sau cái chết đột ngột vì bệnh tim của John Smith. Blair tiếp tục hướng đảng Lao động về phía hữu bằng cách nới lỏng các quan hệ với giới nghiệp đoàn đồng thời áp dụng nhiều chính sách của Margaret Thatcher. Chủ trương này, cùng với tiến trình chuyên nghiệp hóa phương pháp tiếp cận với các phương tiện truyền thông, giúp mang lại thành công cho đảng Lao động trong cuộc tổng tuyển cử năm 1997 với chiến thắng vang dội. Do bớt nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội và tập chú nhiều hơn vào tính dân chủ mà đảng Lao động đã giành được ba chiến thắng áp đảo nhưng lại trở nên xa lạ với nhiều đảng viên cốt cán của mình.